Lao động có khế ước – Wikipedia tiếng Việt

Một khế ước năm 1738.

Lao động có giao kèo (tiếng Pháp: Engagisme; tiếng Anh: Indentured servitude) hoăc lao động theo khế ước ban đầu là một khái niệm pháp lý thuộc chế độ cũ của Pháp và là một thực tế xã hội ở các thuộc địa của Pháp và Anh, đặc biệt là ở Bắc Mỹ, Tây Ấn và Réunion và có liên quan đến nô lệ.[1] Tại Pháp, nó đã được thực hành ở khu định cư Châu Âu của Tân Pháp và Tây Ấn.

Sau khi bị bãi bỏ trong Cách mạng Pháp, lao động có khế ước đã trở thành một hình thức lao động làm công ăn lương từ những vương quốc thuộc địa ( nô lệ cũ ) hoặc những người nhập cư hầu hết từ Châu Phi, Ấn Độ hoặc lưu vực Châu Á Thái Bình Dương, cho những chủ đất lớn ở Tây Ấn thuộc Pháp và Mascarene, những người phải đương đầu với những yếu tố lao động sau khi chính sách nô lệ ở Pháp bị bãi bỏ vào năm 1848. Khế ước là một mạng lưới hệ thống tương tự trong quốc tế Anglo-Saxon .Tại nhiều vương quốc, những mạng lưới hệ thống lao động khế ước hiện đã bị đặt ngoài vòng pháp lý, và bị Tuyên ngôn Nhân quyền Quốc tế cấm như một hình thức nô lệ .

Để cung cấp một lực lượng lao động có kỹ năng và giá rẻ cho các lãnh chúa của Tân Pháp, nước Pháp đã chiêu mộ những người lao động. Sau đó chúng được gọi là “ba mươi sáu tháng”. Phương thức tuyển dụng này rất phổ biến vào thế kỷ XVII, và sau đó trở thành mốt trở lại ngay sau Hiệp ước Utrecht.

Vào ngày 20 tháng 3 năm 1714, một sắc lệnh của hoàng gia ra lệnh cho các thuyền trưởng của các tàu buôn vận chuyển đến châu Mỹ “từ ba người nhập ngũ đến sáu người tùy thuộc vào cảng của tàu của họ“.[2]. Việc giám sát được thực hiện cả khi khởi hành từ Pháp và khi đến Quebec. Sau khi khoảng thời gian ba mươi sáu tháng trôi qua, người làm thuê được tự do mua đất nếu họ có tiền, để trở thành kiểm duyệt viên, hoặc trở lại Pháp. Tuy nhiên, số lượng người đến Tân Pháp rất thấp, phần lớn trong số họ chọn Tây Ấn làm điểm đến.

Di tích còn sót lại của nhà vệ sinh tại Aapravasi Ghat.
Mauritius nhận được những tân binh tiên phong vào đầu những năm 1830. Khi đến đó, họ đi qua những tòa nhà thời nay được gọi là Aapravasi Ghat, một khu vực được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới vào ngày 12 tháng 7 năm 2006, chỉ định nó là nơi hình thành hội đồng người lao động thời tân tiến tiên phong .Những người lao động theo khế ước, hay còn gọi là cu li, giao kèo bằng tiếng Anh, mặc dầu đa phần là Ấn Độ và Trung Quốc, có nhiều nguồn gốc khác nhau : Ethiopia, Congo, Mozambique, Malay, Nhật Bản, người gốc Malagasy, Bretons …Văn bản tiên phong hát về cuộc vượt đại dương của những lao động này là Cale d’étoiles – Coolitude, của nhà thơ Khal Torabully ( 1992 ). Văn bản này mày mò chủ đề của những cuộc di cư, tưởng niệm họ, những yếu tố văn hóa truyền thống, xã hội và ngôn từ trong những xã hội do sự liên kết giữa những khoảng trống khác nhau của con người .Điều này đã mở ra chủ nghĩa kết nối với những yếu tố hiện tại của con người, không có chủ nghĩa thiết yếu. Tác giả cũng nhấn mạnh vấn đề rằng việc kinh doanh cu li, sau khi xóa bỏ chính sách nô lệ, được nhắc lại theo nhiều góc nhìn, ” một hình thức nô lệ mới “, như nhà sử học Hugh Tinker người Anh đã viết .

“Coolitude” là một thuật ngữ do nhà thơ Mauritian Khal Torabully đặt ra để mô tả sự tương tác văn hóa của cộng đồng “cu li” người Ấn Độ hoặc Trung Quốc và mở rộng ra cũng là những cuộc di cư tương tự. Nó đề cập đến một quá trình xuyên văn hóa, liên kết các hình ảnh và nền văn hóa theo những cách phi bản chất. Khái niệm đưa ra lý thuyết về chủ nghĩa nhân văn về sự đa dạng sinh ra từ kinh nghiệm của sự tham gia, đã đóng góp rất nhiều, ở cấp độ đạo đức, để có Lộ trình cam kết được Unesco thông qua vào tháng 10 năm 2014. Ngoài ra, con đường của nô lệ và con đường của những người đã tham gia sẽ tiếp tục là những con đường quan trọng đối với nhân loại.

Ở Reunion, nơi việc bãi bỏ chính sách nô lệ được công bố bởi Sarda Garriga vào ngày 20 tháng 12 năm 1848, kế hoạch lao động khế ước là nguồn gốc của việc tăng gấp đôi dân số trong vòng chưa đầy 35 năm, công nhân được trả lương thấp cũng đến từ Madagascar .Trên thực tiễn, từ năm 1849 đến năm 1859, số lượng phái mạnh Ấn Độ theo khế ước đã tăng từ 11 Nghìn người lên 37.000 người, và những thỏa thuận hợp tác ký kết giữa Pháp và Vương quốc Anh năm 1860 và 1861 đã tăng lên. [ 3 ] .

Hai nguồn lao động chính được Réunion đặc biệt quan tâm. Một mặt, Châu Phi và các đảo chính (Madagascar và Comoros) là nguồn gốc lịch sử của dân lao động, có thể nói là cổ xưa nhất. Mặt khác, Ấn Độ, vì tiềm năng nhân khẩu học đáng kể, đã thu hút sự chú ý của những người trồng mía.[4]

Bằng cách rút ra lần lượt từ cái này đến cái khác tùy thuộc vào những khó khăn vất vả do Anh gây ra, Đảo đã thành công xuất sắc trong việc thiết lập một dòng người di cư có quy tắc, với những lao lý không phải khi nào cũng được tôn trọng .Như nhà sử học Xavier Le Terrier chỉ ra, việc sử dụng những lao động này được cho phép ngành mía đường ” lấp đầy nhân lực ” và vượt qua quy trình xóa bỏ chính sách nô lệ một cách thành công xuất sắc. Tuy nhiên, từ cuối những năm 1850, sự ngày càng tăng của những chiêu thức tuyển mộ lao động đáng ngờ từ bờ biển châu Phi đã góp thêm phần làm ảnh hưởng tác động đến việc nhập khẩu lao động quốc tế : năm 1859, dưới áp lực đè nén của Anh, chính phủ nước nhà Pháp quyết định hành động chấm hết việc tuyển dụng lao động từ lưu vực Đông Phi. Năm 1862, giải pháp này được lan rộng ra đến bờ biển phía tây của châu Phi .Nếu ủy quyền tuyển dụng ở Ấn Độ, được Anh cấp cho Thuộc địa vào năm 1860, sẽ bù đắp một cách thuận tiện cho việc mất TT tuyển dụng lao động từ châu Phi, những lạm dụng gây ra trong toàn cảnh này bằng cách tuyển dụng những đặc vụ và những người liên tục được quan sát thấy ở những điền trang đường của Reunion đã đẩy nước Anh đến đóng cửa làn sóng nhập cư Ấn Độ đến Reunion .Sự kết thúc của việc lao động khế ước Ấn Độ đã được báo trước trước cuối thế kỷ XIX, sau khi bị thử thách bởi việc đình chỉ hiệp định Pháp-Anh năm 1882 nhưng điều đó không ngăn được dòng lao động liên tục từ Ấn Độ .trái lại, điều này chắc như đinh đã khuyến khích sự nhập cư của người Hoa từ vùng Quảng Đông vào đầu thế kỷ XX. Đoàn xe sau cuối tham gia đã không đến nơi cho đến năm 1933, nhưng đó là nguồn gốc của hội đồng hiện tại ” có cách của riêng mình “. Giai đoạn giữa những đại chiến sẽ tận mắt chứng kiến ​ ​ một cuộc cải cách cơ bản về việc phân chia quyền hạn của Sở Di trú, cơ quan quản trị luồng nhập cư đến Đảo Reunion. Sở Di trú ( trước đây thuộc Thương Mại Dịch Vụ Đăng ký, Tên miền và Con dấu ) đã được chuyển giao, sau một báo cáo giải trình từ Phái bộ Thanh tra Thuộc địa năm 1937 theo thanh tra lao động. Dịch Vụ Thương Mại này hiện gồm có, ngoài người đứng đầu, 9 ủy viên cũng như một thông dịch viên người Madagasca, những người cũng đảm nhiệm những số ĐK chung, trong đó ghi nhận những chuyển nhượng ủy quyền đã xảy ra trong những xanhđica ( nghiệp đoàn ) và tương quan đến người nhập cư. Cải cách này giúp hoàn toàn có thể kiểm kê được những người di cư ở đầu cuối xuất hiện ở Reunion. Sau đó, dịch vụ mới sẽ chỉ giải quyết và xử lý những nhóm này, được đề cập trong tài liệu :

“1 – Những người nhập cư Malagasy thuộc chủng tộc Antandroy du nhập vào Đảo Reunion từ năm 1922 đến năm 1927 và những người đã tái du nhập. Họ đánh số 648 và chế độ làm việc của họ được ấn định theo sắc lệnh ngày 22 tháng 9 năm 1925.
2- Những người nhập cư tuân theo sắc lệnh năm 1887 bao gồm 35 người Somalia và Ả Rập từ Yemen và 146 người Ấn Độ, Comorians và Caffres.
3- Rất ít người nhập cư Rodrigues. Hầu hết những người nhập cư này, bị tàn phá bởi bệnh sốt rét và bệnh tê phù (do thiếu vitamin B1), đã trở về Rodrigue.
Về nguyên tắc, Sở Di trú chỉ phải ký hợp đồng với người sử dụng lao động và giải quyết việc hồi hương. Họ tích cực tham gia vào việc hòa giải và xoa dịu càng nhiều càng tốt mọi mâu thuẫn có thể nảy sinh giữa các những người tuyển mộ và người lao động theo kế ước. “

Cuộc cải cách này ghi lại sự kết thúc của lao động hợp đồng khi nó được xây dựng vào thế kỷ 19. Chiến tranh quốc tế thứ hai bùng nổ, mà sau đó, hòn đảo Réunion cắt đứt quan hệ với những nước khác trong khu vực, chấm hết lượng dân cư trú này. [ 5 ] .
Cho đến cuối thế kỷ 18, lao động có khế ước là rất phổ cập ở Bắc Mỹ thuộc Anh. Nó thường là một cách để người châu Âu nghèo di cư đến những thuộc địa của Mỹ : họ đã ký một hợp đồng để đổi lấy tiền chi trả tốn kém cho việc di cư. Sau khi hết hạn, người nhập cư được tự do thao tác cho bản thân mình hoặc gia chủ khác. Ít nhất một nhà kinh tế tài chính đã lập luận rằng lao động có khế ước xảy ra hầu hết là ” một phản ứng thể chế so với sự không tuyệt vời và hoàn hảo nhất của thị trường vốn “. [ 6 ]

Trong một số trường hợp, khế ước được viết ra do chủ tàu, người đã bán người lao động cho một chủ nhân tương lai ở thuộc địa Bắc Mỹ. Hầu hết những người lao động có khế ước đều làm công nhân nông trại hoặc người giúp việc gia đình, mặc dù một số người đã học việc để làm thợ thủ công.

Các lao lý của một khế ước không phải khi nào cũng được những TANDTC Mỹ thi hành, mặc dầu những người lao động chạy trốn thường được tìm kiếm và trả lại cho gia chủ của họ .Từ 50% đến hai phần ba số người nhập cư da trắng đến những thuộc địa của Mỹ giữa những năm 1630 và Cách mạng Mỹ là những lao động có khế ước. [ 7 ] Tuy nhiên, trong khi gần 50% số người nhập cư châu Âu đến Mười ba thuộc địa là những lao động có khế ước, thì bất kỳ khi nào họ cũng có số lượng ít hơn những công nhân chưa khi nào có khế ước, hoặc khế ước đã hết hạn, và do đó lao động với lương không lấy phí là phổ cập hơn so với người châu Âu thuộc địa. [ 8 ] Những người lao động có khế ước chiếm hầu hết ở khu vực từ Virginia phía bắc đến New Jersey. Số lao động có khế ước ở những thuộc địa khác có ít hơn hẳn. Tổng số người nhập cư châu Âu đến toàn bộ 13 thuộc địa trước năm 1775 là khoảng chừng 500.000 ; trong số 55.000 người này là tù nhân không tự nguyện. Trong số 450.000 người từ châu Âu tự nguyện đến Bắc Mỹ, Tomlins ước tính rằng 48 % đã có khế ước. [ 9 ] Khoảng 75 % trong số này ở độ tuổi dưới 25. Tuổi trưởng thành của phái mạnh là 24 tuổi ( không phải 21 ) ; những người trên 24 tuổi thường ký hợp đồng lê dài khoảng chừng 3 năm. [ 10 ] Về những đứa trẻ đến Bắc Mỹ, Gary Nash báo cáo giải trình rằng ” nhiều lao động có khế ước thực sự là cháu trai, cháu gái, bạn bè họ và con của những người bạn của những người di cư người Anh, mà đã trả tiền cho họ tới Mỹ để đổi lấy sức lao động một khi họ đến Mỹ. ” [ 11 ]Một số trường hợp bắt cóc người [ 12 ] để luân chuyển đến châu Mỹ được ghi lại, ví dụ điển hình như trường hợp của Peter Williamson ( 1730 – 1799 ). Như nhà sử học Richard Hofstadter đã chỉ ra : ” Mặc dù những nỗ lực đã được thực thi để kiểm soát và điều chỉnh hoặc kiểm tra những hoạt động giải trí này, và chúng đã giảm dần tầm quan trọng trong thế kỷ thứ mười tám, nhưng vẫn có một phần nhỏ dân số thuộc địa trắng của Mỹ đã bị ép buộc và một phần đông hơn nhiều đến Mỹ do bị lừa dối từ những linh hồn [ đại lý tuyển dụng ]. ” [ 13 ] Một ” linh hồn ” tên là William Thiêne được biết là đã luân chuyển [ 14 ] 840 người từ Anh đến những thuộc địa trong vòng một năm. [ 15 ] Nhà sử học Lerone Bennett, Jr. quan tâm rằng ” Người chủ những trang trại khai thác gỗ thường không chăm sóc đến việc nạn nhân của họ là da đen hay da trắng “. [ 16 ]

Nguồn tìm hiểu thêm[sửa|

sửa mã nguồn]

  • Abramitzky, Ran; Braggion, Fabio. “Migration and Human Capital: Self-Selection of Indentured Servants to the Americas,” Journal of Economic History, (2006) 66#4 pp 882–905, in JSTOR
  • Ballagh, James Curtis. White Servitude In The Colony Of Virginia: A Study Of The System Of Indentured Labor In The American Colonies (1895) excerpt and text search
  • Brown, Kathleen. Goodwives, Nasty Wenches & Anxious Patriachs: gender, race and power in Colonial Virginia, U. of North Carolina Press, 1996.
  • Hofstadter, Richard. America at 1750: A Social Portrait (Knopf, 1971) pp 33–65 online
  • Jernegan, Marcus Wilson Laboring and Dependent Classes in Colonial America, 1607–1783 (1931)
  • Morgan, Edmund S. American Slavery, American Freedom: The Ordeal of Colonial Virginia. (Norton, 1975).
  • Nagl, Dominik. No Part of the Mother Country, but Distinct Dominions – Law, State Formation and Governance in England, Massachusetts und South Carolina, 1630-1769 (LIT, 2013): 515–535, 577f., 635–689.online
  • Salinger, Sharon V. To serve well and faithfully: Labor and Indentured Servants in Pennsylvania, 1682–1800. (2000)
  • Tomlins, Christopher. Freedom Bound: Law, Labor, and Civic Identity in English Colonization, 1580–1865 (2010); influential recent interpretation online review
  • Torabully, Khal, and Marina Carter, Coolitude: An Anthology of the Indian Labour Diaspora Anthem Press, London, 2002, ISBN 1-84331-003-1
  • Torabully, Khal, Voices from the Aapravasi Ghat – Indentured imaginaries, poetry collection on the coolie route and the fakir’s aesthetics, Aapravasi Ghat Trust Fund, AGTF, Mauritius, ngày 2 tháng 11 năm 2013.
  • Wareing, John. Indentured Migration and the Servant Trade from London to America, 1618-1718. Oxford Oxford University Press, February 2017
  • Whitehead, John Frederick, Johann Carl Buttner, Susan E. Klepp, and Farley Grubb. Souls for Sale: Two German Redemptioners Come to Revolutionary America, Max Kade German-American Research Institute Series, ISBN 0-271-02882-3.
  • Zipf, Karin L. Labor of Innocents: Forced Apprenticeship in North Carolina, 1715–1919 (2005).

Related Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *